Thứ Sáu, 4 tháng 9, 2015

'Vua lốp' thời mới, ở làng quê mỗi năm kiếm chục tỷ

Sản phẩm lốp cao su tái chế của ông Nguyễn Lương Thông (Ý Yên – Nam Định) hiện đã có mặt ở nhiều nước châu Âu, mỗi năm đem về cho gia đình ông trên 12 tỷ đồng. Danh xưng “Vua tái chế cao su” đất Nam Định cũng được hình thành từ đó.
Sinh năm 1959 tại Ý Yên, Nam Định, thời quân ngũ ông Nguyễn Lương Thông chiến đấu ở chiến trường Tây Ninh, Đông Nam Bộ trong những năm tháng ác liệt nhất của chiến tranh. Giải ngũ năm 1976, ông về quê hương lập gia đình và bươn chải với đủ nghề để duy trì cuộc sống.
Cơ duyên với nghề tái chế cao su bắt đầu từ những tháng ngày đến Hà Đông cùng người con trai út học nghề khâu giày, dép cao su.
“Khi đó học nghề vất vả, tôi học cùng không nhiều vì phải thường xuyên về quê đem gạo, lo tiền sinh hoạt cho hai cha con, thời điểm đó đi học nghề không được ai nuôi” – ông Thông bộc bạch.
vua lốp, Nam Định, Nguyễn Lương Thông, cao su, tiền tỷ, vua-lốp, Nam-Định, Nguyễn-Lương-Thông, cao-su, tiền-tỷ,
Người thợ đang cắt cao su thành từng mảnh
Sau khi học được 3-4 năm, khi đã cứng tay nghề, ông và con trai về mở cơ sở sửa chưa giày dép tại quê nhà. Một lần tình cờ, có người khách lạ tự giới thiệu thuộc Cty Thương mại Cánh đồng xanh, quận Phú Nhuận (TP Hồ Chí Minh) tìm đến, đưa các mẫu sản phẩm như giỏ đựng rác, gương treo tường, xô, chậu và những sản phẩm phục vụ sản xuất trong các nhà vườn, nông trại… đặt ông làm thử.
Ông tiến hành công việc theo yêu cầu của khách và tin vui đến với ông, khách hàng ưng ý và đem mẫu sản phẩm đi triển lãm Châu Âu vào năm 2007, các đơn hàng từ nước ngoài cũng được gửi đến, đại diện công ty Cánh đồng xanh tiếp nhận và đặt hàng cho ông. Từ đó, công việc của hai cha con ông Thông bắt đầu tất bật.
vua lốp, Nam Định, Nguyễn Lương Thông, cao su, tiền tỷ, vua-lốp, Nam-Định, Nguyễn-Lương-Thông, cao-su, tiền-tỷ,
Sơn lại cao su tạo màu sắc như mới
Để có được nguyên liệu, gia đình ông Thông tìm mua lại các lốp xe ô tô đã bỏ đi, tìm cách “bóc tách” cao su thành các mành, lớp khác nhau bởi lốp cao su có nhiều lớp. Có sản phẩm cần cần bóc vải 3 lớp hay 5 lớp để phù hợp với yêu cầu.
Công đoạn bóc tách lốp cao su, theo ông Thông là khó nhất trong quá trình tái chế. Bóc cao su xong, ông lại cặm cụi đo kích cỡ, thiết kế, lên mẫu hàng, quét sơn tạo màu sắc như mới cho sản phẩm.
Xong đâu đấy ông Thông phơi khô hàng mẫu, bắn ghim và khâu sản phẩm. Công đoạn cuối cùng mới là trang trí, bắn thêm quai xách hoặc quai cho từng loại khác nhau.
Với mức giá mua nguyên liệu trên thị trường dao động từ 3.500-4.500 đồng/kg lốp thường và 10.000 đồng/kg lốp đặc chủng, để tạo ra 20.000 sản phẩm/tháng, gia đình ông Thông phải xử lý hàng chục nghìn chiếc lốp ô tô phế thải.
Sản phẩm hoàn thành có giá bán lên đến cả trăm nghìn đồng/ đôi, tùy loại, đem về doanh thu mỗi năm cho gia đình ông cũng trên 12 tỷ đồng.
vua lốp, Nam Định, Nguyễn Lương Thông, cao su, tiền tỷ, vua-lốp, Nam-Định, Nguyễn-Lương-Thông, cao-su, tiền-tỷ,
Những sản phẩm trong một góc nhà xưởng
Không chỉ tái chế lốp cao su thành những sản phẩm xuất khẩu, gia đình ông Thông còn kết hợp làm thêm các sản phẩm mây tre đan, vốn là thế mạnh truyền thống của địa phương để xuất đi nước ngoài.
Với việc tái chế lốp cao su, ông Nguyễn Lương Thông và gia đình mỗi năm thu về hơn 12 tỷ, tạo công ăn việc làm cho hơn 30 lao động với mức lương từ 3-7 triệu đồng mỗi tháng. Những lao động trong gia đình ông chủ yếu là người thân của các đồng đội cũ được ông mời về làm để tạo điều kiện tăng thêm thu nhập.
vua lốp, Nam Định, Nguyễn Lương Thông, cao su, tiền tỷ, vua-lốp, Nam-Định, Nguyễn-Lương-Thông, cao-su, tiền-tỷ,
Ngoài cao su, ông Thông còn chế tạo cả thủ công mĩ nghệ
Thời gian đầu, xưởng sản xuất của gia đình ông chỉ khoảng hơn 100m2 với vài người làm. Sau này mở rộng diện tích, gia đình ông thành lập công ty. Hiện nay, công ty gia đình ông Thông có hàng nghìn m2 nhà xưởng và đang mở rộng thêm, làm cả sang nhiều lĩnh vực khác.
Chưa kể, gia đình ông còn mở thêm các cơ sở vệ tinh khoán sản phẩm cho hàng trăm hộ gia đình trong và ngoài xã nhận nguyên liệu về làm. Trước đây, mỗi năm, gia đình ông xuất sang thị trường các nước khoảng 10.000 sản phẩm. Thời gian gần đây, con số này đã lên tới 15-20.000 sản phẩm/tháng.
Hiện nay, tuổi cao, ông Thông cũng nhường dần công việc cho con cái và các xưởng làm vẫn không ngừng được mở rộng. Tuy tuổi già nhưng hằng ngày vợ chồng ông Nguyễn Lương Thông vẫn miệt mài chế tác sản phẩm cùng công nhân của mình.

Với những thành quả đã đạt được, ông Thông tự tin rằng cơ sở sản xuất, tái chế cao su của mình là số một miền Bắc hiện nay. Qua 20 năm làm nghề, ông Nguyễn Lương Thông được nhiều người mệnh danh là “Ông vua tái chế lốp cao su” của miền Bắc.


Thoát nghèo, kiếm bạc tỷ mỗi năm từ ... lan rừng

Cách đây hơn 10 năm về trước, ý tưởng trồng lan rừng để phát triển kinh tế của anh Phạm Đức Tố được nhiều người cho là “điên rồ”. Vậy mà, giờ đây anh đã trở thành ông chủ của một vườn lan rừng (giống Ngọc Điểm) mỗi năm cho thu nhập trên cả tỷ đồng.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình đông con, lại nghèo khó tại vùng “chiêm trũng” tỉnh Hà Nam, nên năm 1996 anh Phạm  Đức Tố (42 tuổi, ngụ tại thôn 6, xã Mađaguôi, huyện Đạ Huoai), quyết định khăn gói rời quê hương lên mảnh đất cao nguyên Lâm Đồng lập nghiệp.
“Vua” lan Ngọc Điểm
Bạn đọc có thắc mắc hay cần tư vấn, chia sẻ về kinh nghiệm làm giàu, hãy gửi đến cho chúng tôi: kinhdoanh@dantri.com.vn
Lúc đầu, tại vùng đất hoang sơ Đạ Huoai (Lâm Đồng) anh Tố mua được 0,5 ha đất để cất nhà và làm kế sinh nhai. Trong những năm đầu mới vào lập nghiệp, anh đã chọn nhiều loại cây ăn quả như mít, chôm chôm và sầu riêng để trồng thử, đồng thời đi làm thuê, làm mướn để kiếm thêm thu nhập lo cuộc sống.
Công việc nhọc nhằn là vậy, thế nhưng chỉ đủ miếng ăn qua ngày. Sau nhiều trăn trở, anh nghĩ mình đã rời bỏ quê hương đi lập nghiệp để thoát khỏi nghèo khó, nên không thể tiếp tục để cái đói, cái nghèo mãi đeo bám gia đình mình.
Năm 2002, khi anh đang loay hoay tìm hướng đi khác để phát triển kinh tế, thì vô tình anh được một người bạn ở TP Hồ Chí Minh giới thiệu về nghề trồng lan rừng.
Khi được “mách nước”, anh Tố có ý tưởng trồng lan rừng ngay lập tức. Nhưng lan rừng là loài hoa rất khó trồng, nhiều người đã khuyên can anh và thậm chí có người còn cho rằng ý tưởng trồng lan rừng của anh là “điên rồ”.
Anh Tố tâm sự: “Ngày ấy, khi được nghe bạn bè nói nhiều về việc làm giàu bằng nghề trồng lan rừng, nên tôi mê lắm. Thế là, sau một thời gian tìm hiểu, tôi đã quyết định chọn giống lan rừng Ngọc Điểm (còn gọi là lan Tai trâu hay Nghinh xuân) để trồng thử. Vì trồng thử, nên ban đầu tôi chỉ trồng 50 trụ lan”.
Thế nhưng, do mới tiếp cận với cây lan rừng, nên ngày qua ngày, anh dường như bất lực nhìn những trụ lan mình trồng cứ chết dần, chết mòn. Nhiều lúc anh Tố chán nản nhưng anh vẫn không bỏ cuộc.
Cứ như vậy sau vài lần thất bại, anh nhận ra thiếu sót lớn nhất của mình chính là việc không hiểu biết về kỹ thuật trồng, chăm sóc lan. Vậy là, anh lại bắt đầu đi tìm hiểu, qua những vùng trồng nhiều lan rừng, qua sách, báo...
Trong năm đầu trồng thử nghiệm, anh dành trọn thời gian để tìm hiểu nguyên nhân tại sao cây lan mình trồng không thể phát triển được và loại cây nào thì phù hợp với mảnh đất nơi đây.
Cuối cùng anh nhận ra rằng, lan Ngọc Điểm thích hợp nhất với khí hậu nơi đây và phát triển tốt khi trồng trên cây vú sữa. Cùng với đó, việc điều tiết độ ẩm, nhiệt độ, nước và ánh sáng cho lan là vô cùng quan trọng và cần thiết.
Từ đó, anh quyết định vay mượn thêm kinh phí để đầu tư làm nhà lưới, săn tìm mua cây vú sữa và mày mò thêm về kỹ thuật chăm sóc cây lan.
Anh Tố chia sẻ: “Lan Ngọc Điểm là một trong những loại lan rừng có nguồn gốc từ Campuchia và Thái Lan. Loài lan này chỉ nở vào mua xuân (nở đúng dịp tết) rất quý, hiếm nên được gọi là lan Nghinh xuân. Để trồng được, đòi hỏi phải nắm vững kỹ thuật điều tiết độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng và nước phù hợp cho nó.
Thông thường, lan Ngọc Điểm thích hợp với nhiệt độ khoảng 20 - 32oc và độ ẩm từ 55 - 60%. Loài lan này rất ưa nước, nên vào mùa khô cần phải tưới nước thường xuyên để kích thích lan ra rễ; đồng thời, cần điều tiết ánh sáng ở mức từ 60 - 70 % là đủ cho lan phát triển”.
“Đặc biệt, người trồng lan cần phải thường xuyên bám vườn theo dõi để kịp thời xịt thuốc, bón phân theo định kỳ hàng tháng, thậm chí hàng tuần. Khi phát hiện lan bị bệnh với các triệu chứng như úa vàng, héo rũ, thối rễ… cần phải trị tận gốc không để lây lan”, anh Tố chia sẻ thêm.
Hiện nay, vườn lan Ngọc Điểm của anh Tố đã có diện tích 2.000 m2, được trồng trên 1.000 trụ bằng cây vú sữa cao từ 1,5 - 2m. Điều đặc biệt, lan của anh chỉ thu hoạch để bán giống và được tính theo kg.
2-15-1441283627852
Vườn lan rừng tiền tỷ của anh Tố
Hiện, mỗi trụ lan của anh cho năng suất từ 5 - 7kg/năm. Tất cả được anh xuất bán đi 3 thị trường chính là TP.HCM, Hà Nội và Đà Nẵng. Với giá bán từ 250 - 300 ngàn đồng/kg, mỗi năm mang lại cho gia đình anh nguồn thu nhập trên 1 tỷ đồng.
Vườn lan rừng của anh Tố hiện nay gần như lớn nhất cả huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng), không những mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình anh, mà còn tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều lao động ở địa phương.
Chia tay với cái nghèo từ trồng lan rừng
Cùng với anh Tố, hiện nay, trên địa bàn huyện Đạ Huoai đang có khoảng 15 hộ đầu từ trồng lan Ngọc Điểm. Hiện, các hộ trồng lan chủ yếu tập trung tại 3 địa phương là thị trấn Mađaguôi, xã Mađaguôi và xã Đạ Oai.
Trong đó, anh Phạm Đức Tố đang nhận hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc lan cho 6 hộ. Anh Tố niềm nở chia sẻ: “Mình là người đi đầu và có hiểu biết được chút ít, nên ai cần tư vấn về những vấn đề liên quan đến lan rừng thì minh luôn sẵn sàng. Nhưng, trồng loại lan này vốn đầu tư rất lớn và đòi hỏi người trồng phải có tâm huyết với cây lan.
Ngoài những yếu tối cần thiết về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và nguồn nước, thì phải chú ý đến không khí xung quanh. Lan rừng không thích nghi với không khí ô nhiễm, nên cần trồng trong môi trường trong sạch, thoáng mát”.
Anh Phạm Quốc Thuần, ngụ tổ 11, thị trấn Mađaguôi (người được anh Tố giúp đỡ về kỹ thuật trồng lan), cho biết: thấy cây lan rừng phù hợp với vùng đất này, nên anh đã đầu tư trồng để phát triển kinh tế. Hiện, anh Thuần đang đầu tư trồng với diện tích 300m2 lan Ngọc Điểm.
4-3-1441283627823
“Tôi thật may mắn và yên tâm khi được một người am hiểu về cây lan rừng như anh Tố giúp đỡ về kỹ thuật. Từ cây lan mà thu nhập của gia đình tôi tăng đáng để”, anh Thuần cho biết thêm.
Tương tự gia đình anh Nguyễn Trọng Thái, một người trồng lan khác (ngụ tại thôn 2, xã Mađaguôi), chia sẻ: “Chúng tôi là những người đi sau, không những được anh Tố hướng dẫn về kỹ thuật trồng, chăm sóc lan mà còn được anh giới thiệu cả thị trường xuất bán. Được sự giúp đỡ của anh Tố, chúng tôi rất yên tâm khi đầu từ trồng lan để phát triển kinh tế gia đình”.
Chính tình yêu hoa lan và quyết tâm vươn lên làm giàu chính đáng đã tạo cho anh Phạm Đức Tố có được thành công như ngày hôm nay. Không những vậy mà còn giúp địa phương thoát nghèo, khi một số hộ gia đình được anh Tố chia sẻ cách trồng lan rừng giờ đây đã phát triển và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Hy vọng, trong thời gian tới anh Tố cùng với những người trồng lan khác tại huyện Đạ Huoai (Lâm Đồng), sẽ viết nên một “kỳ tích” thoát nghèo từ chính cây lan rừng với tên gọi Ngọc Điểm cho vùng đất này.


Thứ Năm, 3 tháng 9, 2015

Lãi hơn 1,5 tỷ đồng/năm từ nghề sấy gạo sữa

Từ 3 cái lò sấy lúa thông thường, ông Lê Văn Thiên - ấp Hậu Quới, xã Hậu Mỹ Bắc B (huyện Cái Bè) đã chuyển sang sấy gạo sữa cho các thương lái gần 8 năm qua. Trung bình mỗi năm ông sấy khoảng 15.000 – 17.000 tấn lúa, thu lãi thấp nhất 1,5 tỷ đồng/năm.

Trong căn nhà tường khá khang trang với đầy đủ mọi tiện nghi, ông Thiên (còn gọi là Bảy Thiên) bồi hồi nhớ lại cái duyên đến với nghề sấy lúa của mình. “Khoảng năm 2008 trong một lần tôi đi mua lúa gặp anh Năm Nhã (Doanh nghiệp lò sấy Năm Nhã) than thở việc buôn bán không lời, nhất là khi mua lúa ướt, gặp khó trong khâu phơi, sấy… Anh Năm Nhã bảo tôi: nếu giá mua lúa ướt và khô trên lệch 1.000 đồng thì tôi đảm bảo anh có lời gấp 3 - 4 lần khi làm lò sấy. Từ câu nói này, tôi quyết định làm 3 lò sấy với công suất mỗi lò khoảng 20 tấn lúa”
3-1441096217525
Ông Lê Văn Thiên bỏ nghề hàng sáo và chuyển và nghề sấy gạo sữa cho các thương lái gần 8 năm qua. Nhờ đó, mỗi năm ông thu chắc 1,5 tỷ đồng.
“Sau một năm đầu sấy gạo thường, tôi thấy các thương lái ở địa phương có nhu cầu sấy gạo sữa, với lại sấy gạo sữa sẽ tăng năng suất và tăng lợi nhuận gấp đôi so với sấy gạo thường. Do đó, tôi quyết định chuyển qua sấy gạo sữa và tôi tìm đến một hai lò sấy gạo sữa trong vùng tìm hiểu và hỏi thêm đơn vị cung cấp lò sấy về mặt kỹ thuật. Sau khi nắm vững nguyên lý sấy gạo sữa, tôi chuyển hẳn sang loại này từ đó cho đến nay và rất thành công”, ông Thiên cho biết.
Để sấy gạo sữa, ông Thiên tăng cường thêm một cái quạt (loại 80cm) cho mỗi lò sấy để lượng gió đưa nhiệt vào lò được đảm bảo. Ngoài ra ông Thiên không thay đổi hay đầu tư gì thêm so với kết cầu ban đầu. Sau khi hoàn thành, ông bắt đầu nhận sấy gạo sữa, trung bình mỗi lò ông đổ từ 50 – 66 tấn lúa (độ dày của lúa cao từ 1 – 1,2m) và chỉ mất 50 giờ là hoàn thành một mẻ sấy gạo sữa với giá thành hiện nay 240.000 đồng/tấn, cao gấp 2 lần sấy gạo thường. Với mức giá sấy này, nhiều chủ lò sấy khác cho biết, trừ hết chi phí còn lời từ 40 - 50%.
2-1441096217281
Với diện tích 8x13m, các lò sấy khác chỉ đổ từ 40 -50 tấn lúa nhưng ông Bảy Thiên đổ đến 66 tấn lúa nên độ dày từ 1 -1,2m
Theo vợ ông Thiên cho biết, khoảng 2 -3 năm về trước, ít người làm lò sấy nên công sấy cũng cao hơn, trung bình từ 300.000 – 350.000đồng/ tấn. Tuy nhiên, một hai năm trở lại đây, nhiều người đầu tư lò sấy, nhất là loại sấy gạo sữa nên giá thành cạnh tranh nên giảm còn 240.000đồng/tấn.
Mặc dù vậy, theo vợ ông Thiên cho biết, gia đình ông vẫn “sống khỏe” hơn nghề hàng sáo gấp trăm lần, vì không phải đội nắng mưa, nhất là tiền lời nghề hàng sáo 8 năm trước chỉ là mớ cám nuôi heo.
Những tháng cao điểm như vụ đông xuân hàng năm, lò sấy của ông sấy khoảng 2.000 tấn lúa/tháng, còn những lúc bình thường trung bình ông sấy trên dưới 1.500 tấn/tháng. Mỗi tấn lúa sau khi trừ hết mọi chi phí ông Thiên còn lời 50.000 – 100.000 đồng, tính ra, mỗi năm ông bỏ túi thấp nhất cũng 1,5 tỷ đồng.
1-1441096217393
Theo ông Bảy Thiên, kỹ thuật sấy gạo sữa quan trọng nhất là nhiệt độ do vậy phải canh lửa và tường xuyên theo dõi nhiệt độ mà tăng giảm để độ ẩm của lúa đạt như mình mong muốn
Ông Thiên chia sẻ: “Mới nghe qua tưởng chừng làm nghề lò sấy dễ thành tỷ phú nhưng cũng khó ăn lắm! Vì chỉ cần chọn công nghệ lắp ráp lò sấy không đúng là sẽ gặp khó khăn, nhất là bộ phận cánh quạt, vì đây là bộ phận quan trọng đưa nhiệt vào lò sấy. Một khi nhiệt độ không đồng đều, độ ẩm của lúa không đạt dẫn đến chất lượng gạo giảm mạnh. Nếu sản phẩm mình cho ra như vậy là thương lái bỏ mình ngay, nhất là với các thương lái sấy gạo sữa, vì 1 kg gạo sữa có giá thành cao hơn gạo thường từ 1.000 – 2.000 đồng mà họ sấy hàng trăm tấn lúa thì tính ra một số tiền thất thoát không nhỏ, khi tỷ lệ gạo đạt chỉ trên nhau 3 - 5%”.
Ngoài ra ông Thiên cũng thông tin, thị trường còn rộng lớn nhưng việc đầu tư lò sấy cần một số vốn lớn trong khi đó các chính sách của Chính phủ trong việc hỗ trợ nông dân giảm thất thoát sau thu hoạch thì người dân khó lòng tiếp cận nguồn vốn vay này.
Hiện tại, lò sấy của ông Thiên được đầu tư gần như tự động hết, từ khâu lên xuống lúa đến khâu điều chỉnh nhiệt độ ở 3 lò sấy. Do vậy, thay vì trước đây ông sử dụng đến 20 công nhân lao động thì nay chỉ cần 10 người. Được biết, mỗi công nhân lao động ở đây có thu nhập ổn định từ 300.000 – 400.000 đồng/ngày.


Thu tiền tỷ từ rau củ tí hon

Năm 2012, Nguyễn Thành Nguyên (26 tuổi) tốt nghiệp đại học ngành quản trị kinh doanh ở Mỹ, về nước làm việc trong lĩnh vực xuất nhập khẩu ở TP HCM. Tuy nhiên, chỉ sau vài tháng, chàng trai này quyết định từ bỏ công việc với mức lương khá cao trở về quê nhà Đà Lạt bắt tay vào công việc làm nông.
Mọi việc bắt đầu khi Nguyên được một đối tác Canada đặt vấn đề hợp tác trồng đậu Hà Lan để thay thế sản phẩm lâu nay nước này vốn chỉ nhập từ Trung Quốc. Theo thỏa thuận, anh chịu trách nhiệm sản xuất, đối tác cam kết bao tiêu sản phẩm.
Nguyên cho biết nhiều năm qua ở Đà Lạt, mẹ anh vẫn cần mẫn làm nông, nên khi anh quyết tâm dấn thân vào nghề này thì những nền tảng cần thiết nhất đã có sẵn. Thôn Đạ Nghịt (xã Lát, huyện Lạc Dương, Lâm Đồng) chỉ cách Trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 20km, là vùng đất hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi cho ngành nông nghiệp công nghệ cao phát triển...
8x-JPG-2332-1441159734.jpg
Nguyễn Thành Nguyên giới thiệu dưa leo trái tí hon. Ảnh: Dân Việt
Tất cả diện tích sản xuất của Nguyên đều được phủ nhà kính, lắp đặt đầy đủ trang thiết bị hiện đại, tự động, quy trình sản xuất khép kín từ khâu ươm hạt đến thời điểm thu hoạch. Từ 3ha đất sản xuất ban đầu, sau 3 năm Nguyên đã xây dựng thành nông trại sản xuất rau công nghệ cao với diện tích 20ha.
Nông sản Nguyên làm ra gồm trên 10 loại rau, củ quả, chất lượng đạt chuẩn VietGAP và GlobalGAP. Ngoài tiêu thụ trong nước, mỗi tháng Nguyễn Thành Nguyên xuất sang Canada và Đài Loan hàng chục tấn đậu Hà Lan, rau xà lách Mỹ.
Đặc biệt ở nông trại của thanh niên Đà Lạt này lại chính là những sản phẩm rau, củ, quả siêu nhỏ. “Thời nay người tiêu dùng không chỉ quan tâm chất lượng sản phẩm mà hình thức cũng là một điều kiện cần thiết không thể xem nhẹ. Cái độc, cái lạ bao giờ cũng được đón nhận dễ dàng nhất”, Nguyên cho biết. 
Những chùm cà chua siêu nhỏ quả chỉ bằng ngón tay với nhiều màu sắc khác nhau, cà rốt củ to nhất chỉ bằng ngón tay cái, củ dền to bằng ngón chân… Chính sự tí hon của những sản phẩm đã nhanh chóng thu hút được sự chú ý đặc biệt của người tiêu dùng.
Đến nay, mỗi tháng nông trại của Nguyên cung ứng khoảng 5 tấn rau củ tí hon cho các siêu thị, cửa hàng và những nhà hàng khách sạn trên cả nước. Bên cạnh đó, hàng chục tấn nông sản thông thường khác cũng được chàng trai này xuất ra thị trường với lợi nhuận hàng tỷ đồng mỗi năm.


Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Khởi nghiệp nuôi ba ba gai với... 1 triệu đồng

Với nghề nuôi ba ba gai, gia đình ông Đỗ Đức Tắp, thôn Công Vũ, xã Vũ Xã, huyện Kim Động (Hưng Yên) không chỉ thoát nghèo mà còn có của ăn của để.

Vốn là bộ đội xuất ngũ, khi trở về quê lập gia đình, ông Tắp phải đối mặt với việc mưu sinh khó khăn. Có chút vốn nào lận lưng là ông lại đầu tư nuôi con này, trồng cây kia, từ nuôi kỳ đà, rắn, trồng rau màu…
khoi nghiep nuoi ba ba gai voi... 1 trieu dong - 1
Ba ba gai. Ảnh minh họa
Rồi ông Tắp cũng dừng lại và “chung thủy” với một vật nuôi mới - con ba ba gai. Năm 1992 khi nuôi ba ba gai, ông Tắp vay mượn khắp nơi mới được 1 triệu đồng tiền vốn. Vốn ít, ông chỉ nuôi được 10 con ba ba gai giống mua tận Yên Bái về. Vợ chồng con cái hì hục đi đào giun, bắt ốc, kiếm cá tạp về làm thức ăn cho đàn ba ba. Cứ thế cho đến 2-3 năm sau, ông Tắp đã có vài trăm con ba ba giống trong ao.
“Tính ra, mỗi năm tiền lãi bán ba ba giống, ba ba thịt cũng mang về cho gia đình hơn 100 triệu đồng, đủ để chi tiêu”- ông Tắp chia sẻ.
Theo ông Tắp, ba ba gai là con đặc sản hiền lành, dễ nuôi, hợp với khí hậu lạnh mùa đông ở miền Bắc. Hỏi kinh nghiệm của các chủ ao trên Yên Bái, rồi tự nghe đài, đọc báo tìm hiểu thêm, đến nay ông Tắp gần như một “cẩm nang” sống về nghề nuôi ba ba, nhất là ba ba gai. Ông còn mày mò tìm ra những loại cây cỏ, phương thức chữa một số bệnh, dịch trên đàn ba ba nuôi mà không tốn nhiều tiền.
Hiện tại, tổng diện tích ao nuôi ba ba của gia đình ông Tắp là 1.000m2 với hơn 200 con ba ba bố mẹ. Ông bố trí mật độ trung bình trong một ô nuôi là 3 con cái sinh sản và một con đực. Khoảng thời gian thu hoạch ba ba giống là vào tháng 6, tháng 7 trong năm. Mỗi con ba ba cái 1 lứa đẻ từ 20 – 30 quả trứng, tỷ lệ ấp nở đạt từ 80-90%. Khi xuất bán, 1 con ba ba giống có giá dao động từ 150.000 – 170.000 đồng. Sau 3 năm nuôi từ khi thả giống, trung bình 1 con ba ba gai có trọng lượng 4kg, giá bán từ 450.000–500.000 đồng/kg.
“Mỗi gia đình chỉ cần 1 cái ao 1.000m2 nuôi ba ba gai thì mỗi năm trừ chi phí đi vẫn có lãi 150 triệu đồng…”- ông Tắp cho hay

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons